Nhật Bản thay đổi chính sách tiền tệ: Điều gì sẽ xảy ra tiếp theo?


Bất chấp việc Nhật Bản có sự điều chỉnh quan trọng trong chính sách tiền tệ, đồng nội tệ của nước này tiếp tục chạm đáy hôm 16/4. Điều này khiến các nhà phân tích đặt câu hỏi, liệu quyết định chấm dứt chính sách lãi suất âm kéo dài nhiều thập kỷ sẽ thực sự đưa đến tác động như thế nào?

Ảnh: Reuters
Ảnh: Reuters

Đồng Yên thiết lập đáy mới trong 34 năm

Đồng Yên của Nhật Bản tiếp tục suy yếu mặc dù trước đó đã thiết lập đáy mới trong 34 năm ở mức 154,45 JPY đổi 1 USD.

"Chúng tôi đang theo dõi chặt chẽ những diễn biến mới nhất", Bộ trưởng Tài chính Nhật Bản Shunichi Suzuki cho biết hôm 16/4, đồng thời cảnh báo ông sẵn sàng đưa ra hành động đối với thị trường ngoại hối nếu cần tại Tokyo trước khi lên đường tới Washington để tham dự các cuộc họp thường niên của Quỹ Tiền tệ Quốc tế và các cuộc họp tư lệnh ngành tài chính của các nước G7 và G20.

"Chúng tôi sẵn sàng thực hiện mọi biện pháp có thể để ứng phó với tình huống này nếu cần thiết", Bộ trưởng Tài chính Nhật Bản khẳng định.

Lần này, Bộ trưởng Suzuki đã không đưa ra cảnh báo thực hiện hành động "táo bạo" nếu cần, một lời cảnh báo trực tiếp nhất về khả năng can thiệp vào thị trường ngoại hối mà ông từng nhấn mạnh vào tháng trước - thời điểm mà đồng Yên rớt giá kỷ lục xuống gần mức 152 JPY đổi 1 USD.

Chấm dứt lãi suất âm

Vào tháng 3/2024, Ngân hàng Nhật Bản (BOJ) đã kết thúc thử nghiệm kéo dài nhiều năm với lãi suất âm nhằm cố gắng ngăn chặn tình trạng lạm phát kinh tế của đất nước. Quyết định này được đưa ra sau khi Rengo, liên đoàn lao động lớn nhất Nhật Bản, đàm phán một thỏa thuận trong đó một số công ty lớn nhất nước - bao gồm Honda, Nippon Steel và ANA Holdings – chấp nhận tăng lương cho công nhân của họ lên 5,28%, mức cao nhất trong 33 năm.

Mặc dù suy đoán về động thái này ban đầu khiến các nhà kinh tế hy vọng rằng “những thay đổi này cũng có thể khiến một số nhà đầu tư cân nhắc chuyển tiền về Nhật Bản vì lãi suất có thể thu hút nhiều nhà đầu tư hướng tới trái phiếu Chính phủ Nhật Bản (JGB) thay vì trái phiếu nước ngoài”. Tuy nhiên, niềm lạc quan này có vẻ được đưa ra quá sớm và bỏ qua một số yếu tố trong và ngoài nước có thể có tác động hạn chế đến sự thay đổi chính của chính sách tiền tệ.

Yếu tố văn hóa tiết kiệm

Ở trong nước, suy đoán của các nhà kinh tế rằng việc tăng lãi suất lên 0,1% có thể tạo ra sự thay đổi trong thói quen đầu tư của Nhật Bản đã bỏ qua phần lớn văn hóa tiết kiệm đã ăn sâu của người dân nơi đây. Nhà kinh tế học cấp cao Norihiro Yamaguchi của Oxford Economics phát biểu rằng “lạm phát dai dẳng và lương tăng không theo kịp tốc độ tăng giá đã bắt đầu làm thay đổi văn hóa tiết kiệm này. Người ta nhận ra việc duy trì tiết kiệm dưới hình thức tiền mặt hoặc tài khoản séc sẽ chẳng mang lại nhiều lợi ích và có cảm giác như giá trị thực của chúng sẽ giảm đi”. Tuy nhiên, dữ liệu về xu hướng này đưa ra những quan điểm trái chiều về việc liệu văn hóa tiết kiệm và chấp nhận rủi ro tài chính của đất nước có thực sự thay đổi hay không.

Trước đợt tăng lương vào tháng 3, Nhật Bản đã trải qua điều mà nhiều nhà kinh tế coi là “lạm phát tồi tệ ”, nghĩa là đồng Yên yếu hơn đã đẩy giá hàng hóa hàng ngày như thực phẩm hoặc nhiên liệu tăng cao. Trong khi các nhà đầu tư lâu năm ở Nhật Bản tỏ ra cảnh giác với xu hướng này do họ từng trải qua sự sụp đổ của thị trường chứng khoán Nikkei vào những năm 1990, thì các nhà đầu tư trẻ tuổi dường như có khả năng chống chịu rủi ro cao hơn. Theo khảo sát do Hiệp hội Tín thác Đầu tư thực hiện, lần lượt 23% và 29% người Nhật ở độ tuổi 20 và 30 đã đầu tư vào quỹ tương hỗ vào năm 2023. Tuy nhiên, cuộc khảo sát hàng quý mới nhất của BOJ cho thấy các hộ gia đình vẫn có khoảng 7 nghìn tỷ USD tiền mặt và tiết kiệm, vượt xa tổng tài sản đầu tư mà các hộ gia đình nắm giữ. 

Mặc dù BOJ có thể hy vọng rằng đợt tăng lương gần đây có thể tiếp tục châm ngòi cho sự bùng nổ đầu tư trong thế hệ trẻ Nhật Bản, nhưng tính chất bất bình đẳng của việc tăng lương gần đây có thể làm giảm khả năng điều này xảy ra. Thỏa thuận do Rengo đàm phán là thay mặt cho gần 7 triệu công nhân thuộc công đoàn của nước này và phần lớn không áp dụng cho những người làm việc cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME), vốn chiếm 70% tổng số việc làm trên toàn quốc của Nhật Bản. Do đó, mặc dù phần lớn người dân Nhật Bản khó có thể thu được lợi ích từ thỏa thuận lịch sử này nhưng họ vẫn phải đối mặt với việc phải đối mặt với những tác động rộng lớn hơn của việc tăng lãi suất. Quan trọng nhất, các công ty sẽ phải đối mặt với việc phải trả rất nhiều tiền để vay lần đầu tiên sau nhiều thập kỷ, điều này có thể cản trở họ đầu tư vào công nghệ mới, các dự án chi phí cao cũng như hoạt động nghiên cứu và phát triển.

Theo khảo sát năm 2024 của Reuters, khoảng 60% doanh nghiệp Nhật Bản kỳ vọng lãi suất sẽ tăng thêm lên 0,25% vào cuối năm 2024. Do đó, những người tham gia khảo sát đang tìm cách hoàn thành chi tiêu dự án của họ vào đầu năm trước khi chi phí vay tăng thêm. Tuy nhiên, một số công ty – chẳng hạn như công ty thiết kế thiết bị xử lý nước có trụ sở tại Tokyo – đã hoãn các dự án quy mô lớn hơn do lo ngại về chi phí đi vay. Những lo ngại này làm tăng nguy cơ các doanh nghiệp vừa và nhỏ không thể phát triển doanh nghiệp của mình một cách bền vững vì những chi phí bổ sung này làm giảm tỷ suất lợi nhuận mỏng như dao cạo của họ và làm giảm khả năng họ cũng tăng lương cho nhân viên của mình ở mức tương tự 5,28%. Kịch bản này có thể tiếp tục xu hướng các hộ gia đình tích trữ tiền mặt và dẫn đến việc các công ty cắt giảm chi phí, bao gồm cả việc sa thải nhân viên, nhằm khắc phục những khó khăn kinh tế sắp tới. 

Nhân tố bên ngoài

Trong khi đó, những khó khăn của nền kinh tế Trung Quốc cũng là nguy cơ tiềm ẩn đối với sự thành công của việc điều chỉnh chính sách tiền tệ của Nhật Bản. Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Nhật Bản và chiếm 20% kim ngạch xuất khẩu của nước này. Tuy nhiên, Trung Quốc đang trải qua quá trình phục hồi kinh tế yếu hơn dự kiến ​​sau đại dịch COVID-19 do tầng lớp trung lưu ngày càng thu hẹp, bong bóng bất động sản vỡ và sau đó là sự sụt giảm chi tiêu tiêu dùng trong nước. Sự suy giảm tổng thể về sản lượng kinh tế này cũng có thể khiến thương mại Trung-Nhật giảm trong suốt năm 2024, tác động tiêu cực đến cả các công ty lớn và doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Nhật Bản.

Trong khi việc đồng yên giảm xuống mức gần kỷ lục sau đợt tăng lãi suất của BOJ có thể mang lại lợi ích cho các nhà xuất khẩu Nhật Bản đang tìm cách bán sản phẩm của họ với giá rẻ ra nước ngoài, thì đồng yên yếu cũng có thể tác động tiêu cực đến các doanh nghiệp và hộ gia đình trong nước khi chi phí nhập khẩu tăng.

Cùng với đó, lĩnh vực dịch vụ của Nhật Bản có thể sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực nhất bởi các yếu tố nói trên. Lĩnh vực dịch vụ của Nhật Bản - bao gồm cả du lịch - chiếm 70% GDP của đất nước. Tổng lượng khách du lịch nội địa đến Nhật Bản năm 2023 đạt 25 triệu người và mang về kỷ lục 35,9 tỷ USD. Tuy nhiên, tổng số lượng người nhập cảnh từ Trung Quốc – quốc gia là nhóm lớn nhất và là người chi tiêu nhiều nhất trước đại dịch COVID-19 – vẫn chưa trở lại mức trước COVID-19 mặc dù đồng yên yếu đến mức nào trong năm qua. Mặc dù tâm lý của các công ty trong lĩnh vực dịch vụ phần lớn là tích cực khi họ tiếp tục phục hồi sau đại dịch, nhưng lĩnh vực này có thể sẽ tiếp tục bị cản trở ít nhất một phần do những khó khăn kinh tế trong nước của Trung Quốc, dẫn tới các hộ gia đình Trung Quốc giảm nhu cầu đi du lịch nước ngoài tốn kém.

Những yếu tố kinh tế khá bi quan này sẽ không nhanh chóng mất đi trong năm nay  - đặc biệt là những khó khăn kinh tế của Trung Quốc. Do đó, có nguy cơ cao về tác động của sự thay đổi chính sách tiền tệ của Nhật Bản – cụ thể là chi phí vay tăng, chi phí hàng hóa tăng, giá nhập khẩu tăng – sẽ tác động tiêu cực đến lĩnh vực dịch vụ quan trọng của Nhật Bản. Kịch bản như vậy có thể khiến các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực dịch vụ phải cắt giảm thêm chi phí trong suốt cả năm để bảo vệ tỷ suất lợi nhuận của họ, đặc biệt khi đồng yên ngày càng suy yếu khiến họ phải chịu chi phí nhập khẩu ngày càng tăng đối với các vật tư quan trọng trong kinh doanh.

Theo Báo Đại biểu Nhân dân/daibieunhandan.vn