Minh bạch thông tin trên thị trường chứng khoán và một số vấn đề đặt ra

Theo Tạp chí Chứng khoán 9/2017

Bài viết này trao đổi về việc minh bạch thông tin doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán (TTCK) và một số vấn đề đặt ra trong thời gian tới.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Lý thuyết thông tin bất cân xứng và sự cần thiết phải minh bạch hóa thông tin

Lý thuyết thông tin bất cân xứng

Lý thuyết thông tin bất cân xứng (Asymmetric Information Theory) lần đầu tiên xuất hiện vào những năm 1970, các nhà khoa học đã nghiên cứu và phát triển lý thuyết này là G.A.Akerlof (1970), Michael Spence (1973) và tiếp tục được phát triển bởi Joseph Stigliz (1975). Joseph Stigliz (1975) cho rằng bất cứ hàng hóa nào cũng có những đặc tính khác nhau, chất lượng, mẫu mã khác nhau, nên cần phải phân loại, có cơ chế sàng lọc đối với chúng.

Lao động – một loại “hàng hóa đặc biệt” cũng có lao động có năng lực, tay nghề cao và cũng có lao động có năng lực, tay nghề thấp. Vì vậy, không thể trả với mức lương bằng nhau. Để khuyến khích người có năng lực và có năng suất lao động cao thì phải trả lương cao cho họ. Do đó, việc phân nhóm lao động để trả lương là việc làm cần thiết để khuyến khích những người có năng lực, trình độ mang lại hiệu quả cao.

Bất cân xứng thông tin hiện diện trong nhiều lĩnh vực khác nhau như ngân hàng, bất động sản, bảo hiểm, thị trường lao động, thị trường hàng hóa… Trên TTCK, bất cân xứng thông tin xảy ra khi một hoặc nhiều nhà đầu tư sở hữu được thông tin riêng (Kyle, 1985) hoặc có nhiều thông tin đại chúng hơn về một công ty (Kim và Verrecchia, 1994 và 1997). Hệ quả của thông tin bất cân xứng là lựa chọn bất lợi (Adverse Selection- AS) và rủi ro đạo đức hay tâm lý ỷ lại (Moral harzard).

Lựa chọn bất lợi xảy ra ở bất kỳ thị trường nào tồn tại thông tin bất cân xứng. Rủi ro đạo đức hay tâm lý ỷ lại trên thị trường lao động là khi người lao động không cố gắng nâng cao trình độ và cập nhật kiến thức khi có học hàm, học vị. Trên thị trường bảo hiểm, khách hàng khi đã mua bảo hiểm thường giảm sự cẩn trọng vì không phải gánh chịu toàn bộ chi phí thiệt hại do họ gây ra.

Ở TTCK, do tính chất của đầu tư trên thị trường là đầu tư gián tiếp nên việc quản lý, giám sát vốn đầu tư của nhà đầu tư phải thông qua người đại diện để điều hành công ty. Rủi ro đạo đức xuất hiện sau khi đầu tư vốn và phát sinh khi người điều hành công ty không sử dụng vốn hiệu quả và đúng mục đích. Như vậy, rủi ro đạo đức là kết quả của hành vi bị che đậy và xuất hiện sau khi ký hợp đồng (Nguyễn Trọng Hoài, 2006).

Sự cần thiết phải minh bạch hóa thông tin của doanh nghiệp niêm yết (DNNY) trên TTCK

Trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết thông tin bất cân xứng có thể thấy, minh bạch hóa thông tin trên TTCK là cần thiết và là một yêu cầu mang tính khách quan nhằm tiến tới một thị trường hiệu quả trong dài hạn. Một số luận cứ cho thấy sự cần thiết phải minh bạch hóa thông tin của DNNY bao gồm:

Một là, minh bạch hóa thông tin góp phần giảm thiểu rủi ro cho nhà đầu tư. Các nhà đầu tư trên thị trường, đặc biệt là các nhà đầu tư thiểu số, mua số lượng chứng khoán ít thường rơi vào lựa chọn bất lợi khi không có thông tin cân xứng so với người quản lý bên trong doanh nghiệp hay các cổ đông chiến lược.

Do đó, họ có thể bị thiệt hại khi mua phải các chứng khoán kém chất lượng, hay định giá quá cao giá cổ phiếu do sự “méo mó” của các thông tin trên thị trường. Minh bạch hóa thông tin sẽ giúp giảm thiểu chi phí trung gian trong quá trình sàng lọc thông tin và kiểm soát việc sử dụng vốn của nhà đầu tư, giảm thiểu rủi ro cho nhà đầu tư.

Hai là, minh bạch hóa thông tin giúp các doanh nghiệp giảm chi phí sử dụng vốn, tăng hiệu quả hoạt động: Việc tích cực công bố thông tin (CBTT) của doanh nghiệp giúp nhà đầu tư biết đến uy tín, danh tiếng cũng như tiềm năng của doanh nghiệp, từ đó thu hút được lượng lớn nhà đầu tư và giảm được chi phí huy động vốn. Nghiên cứu của Christian Leuz (2009) cũng đã cho thấy chi phí sử dụng vốn của doanh nghiệp giảm do việc tăng cường CBTT.

Ngoài ra, minh bạch hóa thông tin còn làm tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp phát hành ở một số mặt như: giúp doanh nghiệp lựa chọn được dự án đầu tư phù hợp, tạo ra cơ chế giám sát các nhà quản lý trong doanh nghiệp hiệu quả và buộc các nhà quản lý phải hoạt động vì hiệu quả của cổ đông.

Ba là, minh bạch hóa thông tin giúp cơ quan quản lý thực hiện việc quản lý, giám sát thị trường hiệu quả hơn: Việc thông tin của doanh nghiệp dễ dàng được tiếp cận, và các thông tin kịp thời, đáng tin cậy giúp nhà quản lý có thể nhìn tổng quan thị trường, từ đó có những chính sách điều chỉnh phù hợp, hạn chế và ngăn chặn các hành vi vi phạm trên TTCK.

Bốn là, minh bạch hóa thông tin góp phần xây dựng một TTCK hiệu quả: Việc thông tin trên thị trường được tiếp cận nhanh chóng, kịp thời, phù hợp và đáng tin cậy sẽ giúp giá chứng khoán phản ánh đúng các thông tin thị trường cũng như giá trị thực của chứng khoán. Nhà đầu tư sẽ không e ngại khi tham gia thị trường, tăng tính thanh khoản và tăng hiệu quả của TTCK.

Năm là, minh bạch hóa thông tin góp phần giảm tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới với nền kinh tế quốc gia. Khủng hoảng kinh tế trên thế giới thường xuất phát từ sự yếu kém của thị trường tài chính. Trong đó, không minh bạch hóa thông tin là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng tài chính toàn cầu.

Caprio (1998) xem xét mối liên hệ giữa CBTT tài chính và khủng hoảng tài chính tại 12 quốc gia ở khu vực Đông Á và Mỹ Latinh và thấy rằng những nước chịu ảnh hưởng nhiều nhất bởi khủng hoảng châu Á năm 1997 có điểm số minh bạch tài chính dưới mức trung bình, riêng Singapore là quốc gia chịu ảnh hưởng ít nhất vì có mức độ minh bạch trên trung bình.

Halely (2000) xem xét cấu trúc doanh nghiệp ở Indonesia, Hàn Quốc, Malaysia, Philippines và Thái Lan trong suốt khủng hoảng tài chính năm 1997 và kết luận rằng vấn đề CBTT là một yếu tố quan trọng đóng góp vào cuộc khủng hoảng (Benjamas J. et al, 2010). Như vậy, minh bạch hóa thông tin là yếu tố quan trọng góp phần giảm thiểu tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế đối với nền kinh tế trong nước.

Thực trạng minh bạch thông tin DNNY trên TTCK Việt Nam và một số vấn đề đặt ra

Cũng như các thị trường mới phát triển khác, TTCK Việt Nam chịu ảnh hưởng lớn bởi tình trạng thông tin kém minh bạch (thông tin không đầy đủ, thiếu kịp thời, khó tiếp cận, thông tin nội gián…) tạo nên những biến động thất thường của TTCK từ khi ra đời cho đến nay. Do đó, hệ thống pháp lý liên quan đến minh bạch hóa thông tin cũng dần được xây dựng và hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu phát triển thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế.

Theo đó, các văn bản pháp lý liên quan đến minh bạch thông tin có hiệu lực hiện nay bao gồm: Thông tư số 155/2015/TT-BTC ngày 06/10/2015 hướng dẫn CBTT trên TTCK, có hiệu lực từ ngày 01/1/2016, thay thế Thông tư số 52/2012/TT-BTC; Nghị định số 108/2013/NĐ-CP ngày 23/9/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK và Nghị định số 145/2016/NĐ-CP ngày 01/11/2016 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 108/2013/NĐ-CP, có hiệu lực kể từ ngày 15/12/2016; Thông tư số 36/2017/TT-BTC ngày 27/4/2017 của Bộ Tài chính sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 217/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 hướng dẫn thực hiện xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK.

Đánh giá về thực trạng minh bạch thông tin của DNNY trên TTCK Việt Nam trong những năm gần đây cho thấy chất lượng CBTT trên TTCK được cải thiện rõ rệt so với trước kia. Các doanh nghiệp khi phát hành cổ phiếu, muốn thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư trong và ngoài nước đều phải nỗ lực đạt được các điều kiện chào bán.

Khi các doanh nghiệp thực hiện việc niêm yết chứng khoán hoặc đăng ký giao dịch cổ phiếu thì cơ quan quản lý cũng như thị trường có điều kiện để kiểm soát tính công khai, minh bạch, hoạt động kinh doanh cũng như chất lượng quản trị công ty của doanh nghiệp.

Trong một số năm trở lại đây, các vi phạm về minh bạch thông tin mà cụ thể là vi phạm về báo cáo và CBTT đã giảm rõ rệt trong tổng số các vi phạm hành chính trên TTCK. Tỷ trọng vi phạm về minh bạch hóa thông tin trong tổng vi phạm giảm từ 86,7% năm 2013 xuống còn 60,7% năm 2016.

Theo đánh giá của Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX), đã có sự cải thiện đáng kể trong việc CBTT và minh bạch thông tin của các DNNY. Năm 2016, điểm CBTT và minh bạch trung bình tính theo trọng số của các DNNY trên HNX đạt 51,3%, cao hơn 0,5% so với năm 2015, trong đó có 2,1% DNNY đạt chất lượng CBTT và minh bạch xuất sắc; 17,7% số DNNY đạt mức tốt, 41,3% DNNY xếp ở mức trung bình và 39% số DNNY thuộc nhóm cần cải thiện chất lượng CBTT và minh bạch.

Các ngành có điểm CBTT và minh bạch cao nhất năm 2016 là ngành Tài chính, Vận tải kho bãi và ngành Y tế, ngược lại, ngành có điểm CBTT và minh bạch thấp nhất là Thông tin và truyền thông, Bất động sản và xây dựng.

Mặc dù vậy, đánh giá thực trạng minh bạch thông tin DNNY trên TTCK Việt Nam trong những năm gần đây có thể thấy một số vấn đề đặt ra như sau:

Một là, tình trạng vi phạm về CBTT vẫn luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng số vi phạm. Trong các năm vừa qua, số lượng vi phạm về báo cáo và CBTT luôn chiếm trên 50% tổng số vi phạm bị xử phạt. Các lỗi vi phạm phổ biến trong minh bạch thông tin là CBTT, báo cáo không đúng hạn, kịp thời; CBTT không chính xác đầy đủ; không CBTT, báo cáo các thông tin quan trọng cho Sở Giao dịch Chứng khoán (SGDCK), Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN).

Không CBTT cũng là lỗi vi phạm phổ biến của các tổ chức, cá nhân trên thị trường với tỷ trọng 41% và vi phạm về CBTT, báo cáo không chính xác, đầy đủ các nội dung thông tin chiếm tỷ trọng thấp nhất 7,9%.

Hai là, về CBTT liên quan đến tình hình tài chính và kết quả hoạt động: báo cáo tài chính của các DNNY tại Việt Nam được lập theo Chuẩn mực Kế toán Việt Nam (VAS), tuy nhiên VAS lại có nhiều điểm khác biệt với Chuẩn mực Báo cáo Tài chính Quốc tế (IFRS), mà điểm khác biệt lớn nhất là VAS hạch toán theo nguyên tắc giá gốc, trong khi IFRS hạch toán theo nguyên tắc giá hợp lý.

Trên thực tế, đối với các doanh nghiệp trên TTCK Việt Nam khi muốn niêm yết trên TTCK nước ngoài thì theo quy định của Nghị định số 60/2015/NĐ-CP và Nghị định 58/2012/NĐ-CP, các doanh nghiệp phải lập BCTC theo cả IFRS và VAS, đồng thời phải có giải thích sự chênh lệch về số liệu giữa hai báo cáo.

Bên cạnh một số DNNY trên TTCK áp dụng theo IFRS thì đối với hầu hết doanh nghiệp đại chúng, việc áp dụng IFRS còn gặp nhiều khó khăn về mức độ phát triển của thị trường, trình độ, năng lực của kiểm toán viên, kế toán viên và của cả các nhà đầu tư trên thị trường. Hơn nữa, chi phí lập báo cáo IFRS có thể vượt lợi ích (do doanh nghiệp phải thay đổi hệ thống) và IFRS được cập nhật thường xuyên nên doanh nghiệp có thể gặp khó khăn trong việc cập nhật thông tin.

Ba là, về minh bạch thông tin của giao dịch với các bên liên quan, giao dịch cổ đông lớn: Quy định về CBTT giao dịch của bên liên quan, cổ đông lớn và người nội bộ của DNNY tại Việt Nam khá tương đồng với quy định của một số nước như Singapore, Malaysia, Mỹ, Nhật Bản, tuy nhiên còn có một số khác biệt như:

(i) DNNY tại Việt Nam phải CBTT liên quan đến tất cả giao dịch của người nội bộ, bất kể giá trị của giao dịch ấy là bao nhiêu, trong khi các nước như Singapore, Malaysia có quy định về giá trị giao dịch của người nội bộ phải CBTT. Ở Singapore, các giao dịch của người nội bộ có giá trị từ 3% giá trị tài sản thuần của DNNY mới phải CBTT, trừ các giao dịch có giá trị thấp hơn 100.000 đô la Singapore (SGD);

(ii) Trong khi các nước quy định giao dịch của bên liên quan từ một giá trị nhất định phải CBTT ngay lập tức, thì DNNY tại Việt Nam được quy định là CBTT trong vòng 24 giờ.

Ngoài ra, mặc dù Việt Nam đã có sự tiến bộ trong CBTT về môi trường và trách nhiệm cộng đồng, vẫn còn một số vấn đề liên quan đến CBTT trong lĩnh vực này như:

(i) Tính pháp lý của CBTT trong lĩnh vực này chưa cao, báo cáo liên quan đến môi trường và trách nhiệm cộng đồng mới chỉ được đề cập như là một phần của Báo cáo thường niên, mà không được quy định cụ thể trong nội dung Thông tư số 155/2015/TT-BTC, cũng như không phải là một báo cáo riêng biệt;

(ii) Quy định về CBTT đối với môi trường và trách nhiệm cộng đồng của Việt Nam áp dụng cho tất cả các công ty đại chúng, không xem xét đến quy mô của doanh nghiệp. Trong khi đó, tại Malaysia, quy định trên chỉ được áp dụng đối với DNNY và áp dụng với DNNY quy mô lớn trước rồi mới đến DNNY quy mô nhỏ. Ngoài ra, quy định CBTT về môi trường và trách nhiệm cộng đồng của Việt Nam cũng chưa xem xét đến vấn đề ngành nghề của từng doanh nghiệp mà áp dụng cứng nhắc cho tất cả các doanh nghiệp, do đó các doanh nghiệp ở các ngành nghề kinh doanh khác nhau không xác định được vấn đề môi trường và trách nhiệm cộng đồng nào quan trọng với bản thân công ty và các bên liên quan;

(iii) Các quy định về CBTT đối với môi trường và trách nhiệm cộng đồng còn mang tính tuân thủ nhiều hơn là trình bày các thuyết minh liên quan đến môi trường và trách nhiệm cộng đồng.

Do đó, nhà đầu tư và các bên quan tâm khó có thể biết được câu trả lời cho các câu hỏi như: (a) vấn đề môi trường và trách nhiệm cộng đồng nào quan trọng với công ty và vấn đề đó được xác định như thế nào?; (b) làm sao để quản lý vấn đề này?; (c) hiệu quả thực hiện và quản lý được đánh giá như thế nào?...